Khái niệm, đặc điểm và quản trị tài chính công ty đa quốc gia

Trong bài viết này, Luận Văn Việt chuyên làm thuê luận án tiến sĩ xin giới thiệu đến bạn 3 nội dung quan trọng liên quan đến công ty đa quốc gia, bao gồm: Khái niệm, đặc điểm và quản trị tài chính công ty đa quốc gia.
Khái niệm, đặc điểm và quản trị tài chính công ty đa quốc gia
Khái niệm, đặc điểm và quản trị tài chính công ty đa quốc gia

1. Khái niệm công ty đa quốc gia

Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (Multinational Corporation) là công ty tham gia vào quá trình sản xuất và bán sản phẩm hoặc dịch vụ ở nhiều nước. Ban đầu nó gồm một công ty mẹ đặt tại chính quốc và có ít nhất năm hoặc sáu công ty con ở nước ngoài, đặc biệt có mức độ hợp tác hỗ trợ lẫn nhau cao và mang tính chiến lược giữa các công ty con của nó. Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia. Các công ty này có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hoá. Một số công ty đa quốc gia có tới 100 công ty con ở nước ngoài trên khắp thế giới. Liên hiệp quốc dự đoán rằng có ít nhất 35.000 công ty con trên thế giới có thể xem là công ty đa quốc gia. 
Các công ty đa quốc gia có thể xếp vào 3 nhóm lớn theo cấu trúc các phương tiện sản xuất: 
– Công ty đa quốc gia “theo chiều ngang” sản xuất các sản phẩm cùng loại hoặc tương tự ở các quốc gia khác nhau (ví dụ: McDonalds). 
– Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc” có các cơ sở sản xuất ở một số nước nào đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở một số nước khác (ví dụ: Adidas).
– Công ty đa quốc gia “nhiều chiều” có các cơ sở sản xuất ở các nước khác nhau mà chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc (ví dụ: Microsoft).

2. Đặc điểm công ty đa quốc gia

2.1. Phạm vi hoạt động trải rộng trên nhiều quốc gia

Dù theo đuổi chiến lược thâm nhập nước ngoài hay mở rộng toàn cầu, đặc trưng của một công ty đa quốc gia là quy mô và phạm vi phân bổ tài sản của nó. Sự tồn tại thực sự của các công ty đa quốc gia là dựa vào khả năng dễ di chuyển của một số nhân tố sản xuất nhất định giữa các nước. Thay vì phải giới hạn việc tìm kiếm các địa điểm xây dựng nhà máy trong nước, một công ty đa quốc gia đặt vấn đề: ở đâu trên thế giới là nơi mà chúng ta nên đặt nhà máy? Tương tự như vậy, bộ phận quản lý marketing tìm kiếm thị trường quốc tế chứ không phải trong nước để thâm nhập và bộ phận quản lý tài chính không giới hạn việc tìm kiếm vốn hoặc cơ hội đầu tư đối với bất kỳ một thị trường tài chính quốc gia nào.
Vì vậy nhân tố quan trọng để phân biệt công ty đa quốc gia đó là hoạt động tìm kiếm bên ngoài, thực hiện và hợp tác sản xuất, marketing, R&D và các cơ hội tài trợ trên cơ sở toàn cầu chứ không phải trong nước. Ví dụ, dự án về chất siêu dẫn của IBM được khởi xướng ở Thụy Sỹ bởi một nhà khoa học Đức và một nhà khoa học Thụy Điển, những người cùng nhận một giải thưởng Nobel vật lý về công trình nghiên cứu dự án này. Một ví dụ khác, vốn được huy động ở Luân Đôn trên thị trường đôla châu Âu, có thể được sử dụng bởi một nhà máy dược phẩm đặt tại Thụy Sỹ để tài trợ việc mua thiết bị của Đức bởi một công ty con ở Braxin. Một con búp bê Barbie có thể được làm ở 10 nước – thiết kế tại California, với những bộ phận và quần áo từ Nhật, Trung Quốc, Hồng Kông, Malaysia, Indonexia, Hàn Quốc, Ý, Đài Loan, được lắp ráp tại Mexico và được bán trên 144 nước. 
Những nhân tố cần thiết đối với việc hợp nhất hoạt động toàn cầu là linh hoạt và tốc độ. Đặc biệt, tốc độ đã trở thành một vũ khí cạnh tranh lợi hại trong cuộc chiến giành giật thị phần quốc tế. Khả năng phát triển, sản xuất và phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ nhanh chóng cho phép các doanh nghiệp chiếm được khách hàng, những người cần sự đáp ứng linh hoạt, nhanh chóng và đổi mới thường xuyên.

2.2. Các công ty đa quốc gia khác nhau có những động lực phát triển khác nhau

 Bởi vì các lợi thế về chi phí có thể thực hiện từ việc sản xuất ở nước ngoài hoặc các cơ hội thu nhập có thể có từ nhu cầu của thị trường nước ngoài, tiềm năng phát triển trở nên lớn hơn đối với các công ty quan tâm đến hoạt động kinh doanh quốc tế. Những đầu tư quốc tế phát triển mạnh mẽ qua thời gian, chúng được thúc đẩy bởi sự tổng hợp của các nhân tố: Sự dỡ bỏ hoặc giảm bớt những rào cản đối với đầu tư nước ngoài; các chi phí vận tải và thông tin giảm mạnh; các thị trường vốn quốc tế và nội địa hoạt động tự do hơn, trong đó các công ty có thể huy động những khoản vốn khổng lồ, những rủi ro tiền tệ và các rủi ro khác có thể bảo hiểm được. Tuy nhiên không phải tất cả các công ty đa quốc gia đều có chung một câu trả lời cho câu hỏi tại sao chúng lại tấn công ra thị trường quốc tế. Trên thực tế chúng tìm kiếm những cơ hội rất khác nhau. 
– Tìm kiếm vật liệu thô
Những người tìm kiếm vật liệu thô là những công ty đa quốc gia và những tổ chức kinh doanh quốc tế đầu tiên. Đó là những công ty Anh, Hà Lan và Đông Ấn Độ, Pháp, công ty Bay Trading Hudson và Union Miniere HautKatanga – lúc đầu chúng phát triển dưới sự che chở bảo vệ của các đế chế thực dân Anh, Hà Lan, Pháp và Bỉ. Mục tiêu của chúng là khai thác các vật liệu thô có thể tìm thấy ở nước ngoài. Những bản sao của những công ty này trong thời đại hiện đại là những công ty khai mỏ, dầu lửa đa quốc gia. Họ là những người đầu tiên tiến hành đầu tư mạnh mẽ ra nước ngoài, bắt đầu từ những năm đầu của thế kỷ 20.
Vì vậy, những công ty dầu lửa lớn như British Petroleum và Standar Oil, đã đi đến những nơi mà những con khủng long đã chết (những công ty được bảo trợ của những đế chế thực dân), là những công ty đa quốc gia thực sự đầu tiên. Những công ty khai thác kim loại như International Nickel. Anaconda Copper, và Kennecott Copper cũng là những công ty sớm đầu tư ra nước ngoài. 
– Tìm kiếm thị trường
Người tìm kiếm thị trường là công ty đa quốc gia hiện đại, nó ra nước ngoài để sản xuất và bán hàng ở thị trường nước ngoài. Ví dụ như IBM, Volks-wagen và Unilever. Tương tự như vậy, các công ty sản xuất những mặt hàng nổi tiếng như Nestlé, Levi Strauss, MacDonald’s, P&G, Coca-Cola đã và đang kinh doanh nước ngoài, nơi mà chúng có được doanh số và thu nhập lớn.
Mặc dù đã có những ví dụ về các công ty đa quốc gia tìm kiếm thị trường nước ngoài (ví dụ, Colt Firearms, Singer, Coca-Cola, Philips, và Imperial Chemicals), nhưng phần lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài là thông qua mua lại những tài sản hữu hình như nhà xưởng, trang thiết bị, máy móc ở nước ngoài. Loại hình đầu tư này cơ bản là dòng chảy một chiều – từ Mỹ tới Tây Âu – cho mãi tới những năm gần đầu thập niên 60 của thế kỷ 19. Sau đó, đầu tư ngược chiều bắt đầu, chủ yếu là các công ty Tây Âu mua lại các công ty của Mỹ. Gần đây, các công ty Nhật đã đầu tư vào Mỹ và Tây Âu, chủ yếu để đối phó với những rào cản đối với hàng hóa xuất khẩu sang những thị trường này. 
– Tối thiểu hóa chi phí 
Người tối thiểu hóa chi phí là loại hình doanh nghiệp tương đối mới tham gia kinh doanh quốc tế. Những doanh nghiệp này tìm kiếm và đầu tư vào những quốc gia có chi phí sản xuất thấp (Ví dụ như Hồng Kông, Đài Loan và Ireland) nhằm duy trì khả năng cạnh tranh về chi phí cả ở trong và ngoài nước. Phần lớn các công ty này thuộc ngành công nghiệp điện tử. Ví dụ như các công ty Texas Instruments, Atari và Zenith.

2.3. Tận dụng cơ chế chuyển giao nội bộ để thu lợi nhuận nhiều hơn

Từ giác độ quản lý tài chính, một trong những đặc điểm của công ty đa quốc gia khác biệt với tập hợp các công ty quốc gia thường hợp tác khách quan với nhau, đó là khả năng của nó trong việc chuyển tiền và lợi nhuận giữa các chi nhánh hoặc giữa công ty mẹ và chi nhánh thông qua các cơ chế chuyển giao nội bộ. Có được điều đó là do các công ty đa quốc gia hoạt động trong hệ thống tài chính quốc tế chứ không phải hệ thống tài chính của một nước cụ thể. Những cơ chế này bao gồm chuyển giao giá cả về hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi trong nội bộ, các khoản tín dụng liên công ty, thanh toán lợi tức cổ phần, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại các khoản thanh toán liên công ty, phí và các khoản tiền phải trả cho bản quyền.
Các công ty đa quốc gia có sự tự do đáng kể trong việc lựa chọn các kênh tài chính thông qua đó các quỹ và lợi nhuận được phân bổ hoặc di chuyển. Ví dụ các bản quyền và nhãn hiệu thương mại có thể được bán thẳng hoặc chuyển giao để thu các khoản tiền về bản quyền. Tương tự như vậy, công ty đa quốc gia có thể chuyển lợi nhuận và tiền từ đơn vị này sang đơn vị khác thông qua việc điều chỉnh giá cả chuyển giao đối với các giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ liên công ty.
Dưới giác độ các dòng đầu tư, vốn có thể được chuyển ra ngoài nước dưới hình thức tín dụng với nhiều lựa chọn khác nhau về lãi suất, đồng tiền sử dụng, và kế hoạch thanh toán. Các công ty đa quốc gia có thể sử dụng những kênh khác nhau này, từng kênh hoặc kết hợp với nhau, để chuyển giao quỹ trên bình diện quốc tế, phụ thuộc vào tình hình cụ thể ở từng quốc gia mà nó đặt chi nhánh. Hơn thế, trong các giới hạn của luật lệ khác nhau của các nước và dưới giác độ quan hệ giữa một chi nhánh nước ngoài với chính phủ chủ nhà của nó thì những dòng tiền này có thể có lợi thế hơn so với những dòng có được trong quan hệ làm ăn với các doanh nghiệp độc lập.
Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ nhận làm báo cáo thuê , nhận chạy spss , viết luận văn bằng tiếng anh , làm tiểu luận thuê  , nhận làm bài tập thuê

3. Quản trị tài chính công ty đa quốc gia

3.1. Vai trò

Quản trị tài chính về mặt truyền thống có hai chức năng cơ bản là tài trợ và đầu tư. Chức năng thứ nhất được gọi là các quyết định tài trợ bao gồm việc tạo ra các quỹ từ các nguồn nội bộ hoặc các nguồn bên ngoài cho công ty với chi phí dài hạn thấp nhất có thể. Quyết định đầu tư được coi là việc phân phối các quỹ theo thời gian, theo cách thức nhằm tối đa hóa của cải của các cổ đông. Tuy nhiên, nhiều vấn đề và nhiều hoạt động quản trị tài chính đa quốc gia không thể phân loại một cách rõ ràng như vậy.
Các dòng vốn bên trong của doanh nghiệp như thanh toán vốn vay thường phải được đảm bảo bởi chính MNC để tiếp cận và sử dụng các khoản quỹ đã vay, ít nhất là về mặt lý thuyết. Những dòng tiền khác như thanh toán lợi tức cổ phần có thể được thực hiện để giảm rủi ro ngoại hối hoặc giảm thuế. Cấu trúc vốn và các quyết định tài trợ khác thường được thúc đẩy bởi mong muốn giảm rủi ro đầu tư cũng như chi phí tài trợ. Hơn thế, quản lý rủi ro ngoại hối liên quan tới cả các quyết định tài trợ và các quyết định đầu tư. Sự kết hợp những quyết định này một cách hợp lý là yếu tố quyết định việc tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp đối với các cổ đông của nó.
Các nhà điều hành tài chính trong các công ty đa quốc gia đối mặt với nhiều khó khăn đến từ yếu tố “đa quốc gia” của nó. Những khó khăn này bao gồm rủi ro ngoại hối, rủi ro lạm phát, những khác biệt giữa các nước; các thị trường tiền tệ quốc tế, cùng với khả năng tiếp cận hạn chế; sự kiểm soát tiền tệ, và rủi ro chính trị như sự tước đoạt từ từ và bất ngờ. 
Khi xem xét các đặc trưng riêng biệt của quản trị tài chính đa quốc gia, có thể hiểu rằng công ty thường nhấn mạnh đến các rủi ro kinh tế và chính trị phải đối mặt khi ra nước ngoài. Tuy nhiên, công ty phải chấp nhận những rủi ro đó nếu muốn giành lợi thế bằng cách trở thành công ty đa quốc gia. 
Khả năng di chuyển nhân lực, tiền và nguyên liệu trên cơ sở toàn cầu giúp cho sự hợp tác của công ty đa quốc gia có hiệu quả lớn hơn là tổng giản đơn các bộ phận hợp thành của nó. Vì hoạt động ở các nước khác nhau, MNC có thể thâm nhập các thị trường tài chính khác nhau để làm giảm tổng chi phí vốn chung, di chuyển lợi nhuận để giảm thuế phải nộp, và tận dụng lợi thế của đa dạng hóa quốc tế về thị trường và địa điểm sản xuất để giảm rủi ro của thu nhập. Các công ty đa quốc gia tuân thủ ngạn ngữ “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ” trong lập luận của họ.

3.2. Nội dung

3.2.1. Quyết định đầu tư
– Đầu tư trực tiếp 
Sự mở rộng toàn cầu của các công ty đa quốc gia đã trở nên phổ biến hơn sau hành động của nhiều Chính phủ nhằm dỡ bỏ các hàng rào khác nhau. Các MNC nhìn chung đầu tư vào các cơ hội kinh doanh ở nước ngoài bằng cách tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nó thể hiện ở việc đầu tư vào các tài sản thực (chẳng hạn như đất đai, nhà xưởng hoặc thậm chí các nhà máy đang hoạt động) ở nước ngoài. 
Các MNC tiến hành FDI thông qua liên doanh với các công ty nước ngoài, mua lại các công ty nước ngoài, và hình thành các chi nhánh mới ở nước ngoài. Bất kỳ dạng nào của FDI cũng có thể sinh ra thu nhập cao khi được quản lý tốt. Tuy nhiên, FDI đòi hỏi một mức đầu tư đáng kể và do đó có thể đặt một lượng vốn lớn vào rủi ro. Hơn nữa khi việc đầu tư không hoạt động như mong đợi, các MNC không dễ dàng bán các dự án ở nước ngoài mà nó đã tạo ra. Do những đặc trưng về thu nhập và rủi ro này của FDI, các MNC có xu hướng phân tích cẩn thận các lợi ích và chi phí tiềm tàng trước khi thực hiện bất kỳ một dự án FDI nào. 
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nhìn chung được các MNC xem xét bởi vì nó có thể làm tăng lợi nhuận và nâng cao của cải cho các cổ đông. Có một vài cách trong đó FDI có thể làm tăng thu nhập hoặc giảm chi phí. Phương pháp tối ưu đối với một công ty để thâm nhập vào thị trường nước ngoài phụ thuộc một phần vào các đặc trưng của thị trường. Chẳng hạn, đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty Mỹ thông thường ở Châu Âu chứ không phải ở Châu Á là nơi người dân đã quen với việc mua sản phẩm từ Châu Á. Do vậy các hợp đồng chuyển giao hoặc liên doanh có thể phù hợp hơn khi các công ty muốn mở rộng sang Châu Á. Bảng 1 tóm tắt các lợi ích có thể của FDI và giải thích các cách MNC nên sử dụng FDI để giành được những lợi ích này. Hầu hết các MNC theo đuổi FDI dựa trên những dự tính của họ về việc đầu tư vào một hoặc nhiều các lợi ích tiềm tàng
– Đầu tư gián tiếp 
Đối với các công ty đa quốc gia, khi mà thị trường và người tiêu dùng là toàn cầu thì các nhà đầu tư của nước này có thể mua cổ phiếu và trái phiếu của nước khác và ngược lại. Lợi ích của đầu tư quốc tế là rất nhiều, nhưng có thể thấy ngay là một sự đầu tư trọng điểm được rải đều trên phạm vi quốc tế thì nó sẽ mang lại nhiều cơ hội hơn là khi chỉ tập trung vào thị trường nội địa. 
Hệ thống kinh doanh chứng khoán được mở rộng trên phạm vi quốc tế tạo ra khả năng đạt được sự đánh đổi rủi ro, hay nói cách khác là lợi tức cao hơn so với việc chỉ đầu tư vào các chứng khoán một nước. Điều này có nghĩa là mở rộng hệ thống các tài sản sẵn có cho hoạt động đầu tư sẽ tạo ra lợi tức cao hơn với cùng một mức rủi ro, hoặc chịu rủi ro thấp hơn cho cùng một mức lợi tức kỳ vọng. Quan hệ này phát sinh từ nguyên tắc cơ bản của đa dạng hóa danh mục đầu tư: Đa dạng hóa càng rộng thu nhập càng ổn định và rủi ro càng khuếch tán rộng. 
Một nhà đầu tư khôn ngoan nhận thức được rằng việc đa dạng hóa vào các ngành sẽ làm giảm mức độ rủi ro tại một mức lợi tức kỳ vọng nhất định. Mặc dầu vậy, những lợi ích của việc đa dạng hóa này là giới hạn vì tất cả các công ty trong một quốc gia đều ít hay nhiều bị ảnh hưởng của những dao động kinh tế mang tính chu kỳ. Thông qua đa dạng hóa quốc tế – tức là bằng cách đa dạng hóa ra các quốc gia mà chu kỳ dao động kinh tế không trùng nhau hoàn toàn – các nhà đầu tư có thể giảm nhiều hơn nữa sự biến động của các khoản lợi tức. Nói một cách khác, một rủi ro là mang tính hệ thống trong bối cảnh nền một quốc gia có thể là rủi ro không mang tính hệ thống trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu.
Ví dụ, cuộc khủng hoảng giá dầu lửa làm tổn thương nền kinh tế Mỹ nhưng lại giúp đỡ nền kinh tế của các nước xuất khẩu dầu lửa và ngược lại. Như vậy sự biến động của những cổ phiếu này lại bù trừ một phần sự biến động của những cổ phiếu khác trong cùng một tổ hợp. 
Bên cạnh việc đa dạng hóa danh mục đầu tư, các nhà quản trị công ty đa quốc gia cũng thường nghĩ đến việc đầu tư vào các thị trường mới nổi. Đó là thị trường chứng khoán tại các nước đang phát triển trong đó có các nước công nghiệp mới. Tại đó thị trường chứng khoán còn non trẻ với một mức lợi tức kỳ vọng cao hơn tại các nước phát triển. Mức lợi tức có thể đạt từ 30-40%/năm. Phản ứng lại trước những con số như thế này, dòng vốn tư nhân chảy vào các thị trường mới nổi đã tăng từ hơn 10 tỷ USD một năm lên khoảng 70-90 tỷ USD một năm vào khoảng những năm 19953. Nhưng khả năng lợi tức cao trên những thị trường mới nổi này đi kèm với các rủi ro nhất định. Để bắt đầu, đây là các thị trường nhỏ, tổng số vốn tập trung tại các thị trường này chỉ chiếm dưới 10% tổng lượng vốn của thị trường chứng khoán thế giới.
Vì vậy các thị trường này phải chịu những biến động thường xuyên và thiếu khả năng thanh khoản vốn là những đặc tính thường có của thị trường nhỏ. Các thị trường này cũng phải đối mặt với những rủi ro mang tính đặc thù như: các chính phủ của những quốc gia có thị trường mới nổi tương đối không ổn định, rủi ro của việc quốc hữu hóa các doanh nghiệp, thiếu sự bảo vệ bản quyền, và mối đe dọa của sự biến động giá đột ngột. Tuy nhiên hầu hết các rủi ro này về bản chất là phi hệ thống, cho nên một cách tổng thể, những thị trường mới nổi vẫn có thể làm giảm rủi ro của danh mục đầu tư.
#luan_van_viet, #luận_văn_việt, #LVV , #làm_luận_văn_tốt_nghiệp_đại_học, #làm_chuyên_đề_tốt_nghiệp, #làm_luận_văn_thuê_cần_thơ, #làm_thuê_luận_án_tiến_sĩ

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Khái niệm, đặc điểm và yêu cầu của quyết định quản trị

Mô hình hành vi người tiêu dùng của Philip Kotler

Các mẫu lời cảm ơn trong đề tài nghiên cứu khoa học tại Luận Văn Việt